Hoa Hồng
Hoa hồng gai: Tỏ lòng tốt.
Hoa hồng đỏ: Một tình yêu mảnh liệt và đậm đà, tỏ sự hạnh phúc vinh dự.
Hoa hồng trắng: Tình yêu trong sáng và cao thượng.
Hoa hồng bạch: Ngây thơ duyên dáng và dịu dàng.
Hoa hồng nhung: Tình yêu say đắm và nồng nhiệt.
Hoa hồng vàng: Một tình yêu kiêu sa và rực rỡ. Tình yêu sút giảm và sự phản bội tỏ ý cắt đứt quan hệ.
Hoa hồng phớt: Bắt đầu một tình yêu mơ mộng
Hoa hồng đậm: Người đẹp kiêu kì.
Hoa hồng thắm: Tình yêu nồng cháy.
Hoa hồng cam: Tình yêu hòa lẫn với ghen tuông.
Hoa hồng viền trắng: Tình yêu kín đáo, sâu sắc, sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu
Hoa hồng phấn: Sự trìu mến.
HOA LOA KÈN
Hoa loa kèn màu cam: Sự căm hờn
Hoa loa kèn sư tử loại lớn, có màu đỏ tía hoặc lốm đốm đen: Sự giàu có và kiêu căng
Hoa loa kèn màu trắng: Tượng trưng cho sự trinh nguyên, trong trắng và uy nghiêm. Thật là tuyệt vời khi được ở bên cạnh em.
Hoa loa kèn vàng: Tôi đang đi bộ trên không trung - Một sự sai lầm.
HOA CẨM CHƯỚNG
Sự ái mộ
Tên tiếng Anh : Carnation
Họ : Dianthus caryophyllus
Tên thông dụng : "Jove's Flower" - "Pinks" - "Gillies" - "Gilliflower" - "Sops-in-wine"
Thông điệp - ý nghĩa
Ý nghĩa chung : Sự ái mộ - Sự thôi miên, quyến rũ - Tình yêu của phụ nữ - Niềm tự hào - Sắc đẹp - Tình yêu trong sáng và sâu đậm, thiết tha (Admiration; Fascination; Woman's Love; Pride; Beauty; Pure and deep love).
Cẩm chướng thuần một màu : Đồng ý (Yes)
Cẩm chướng có vằn, sọc : Lời từ chối tình yêu (No, Refusal, Sorry I Can't Be With You, Wish I Could Be With You)
Cẩm chướng hồng : Anh sẽ không bao giờ quên em (I'll Never Forget You)
Cẩm chướng đỏ : Sự ái mộ (Ardor, Admiration)
Cẩm chướng đỏ thẫm : Trái tim tôi đau nhói vì em (Alas, for my poor heart. My heart aches for you)
Cẩm chướng vàng : Sự từ chối, sự khinh thường, thất vọng, hối hận (Rejection; Disappointment; Contempt; Disdain; Rue).
Cẩm chướng trắng : Ngọt ngào và đáng yêu, ngây thơ, tình yêu trong sáng, món quà may mắn cho phụ nữ (Sweet and Lovely, Innocence, Pure Love, Woman's Good Luck Gift)
Cẩm chướng tím : Tính thất thường, đồng bóng (Capriciousness)
Biểu tượng :
Bông hoa của tháng 1 : The flower of January
Biểu tượng hoa cho "Ngày của mẹ" (Mother's Day)
Biểu tượng quốc gia của người Slovene (ở Nam Tư)
Cẩm chướng đỏ (Scarlet Carnation) : Biểu tượng hoa của tiểu bang Ohio, U.S
Người ta nói rằng cái tên "Carnation" xuất phát từ tiếng Ý có nghĩa là "complexion", một số ý kiến khác lại cho rằng tên hoa từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "flesh". Nhưng cũng còn ý kiến khác nữa :"Carnation" từ "cornation" hay "corone" có nghĩa là "flower garlands" - "vòng hoa", do nó được trang trí trong những vòng hoa vào những dịp lễ ở Hy Lạp.Hoa cẩm chướng còn được gọi là "Pink" do mép cánh hoa hình răng cưa (to pink : cắt mép răng cưa; Pinking shear : cái kéo cắt răng cưa).
Tên khoa học của nó Dianthus caryophyllus có nguồn gốc Hy Lạp : "Di" - thuộc về Zeus và "anthos" - hoa. Nó được nhà thực vật học Theopharatus đặt tên "Diathus" (divine flower).
Hoa cẩm chướng có nguồn gốc từ chấu Âu, chủ yếu là vùng Địa Trung Hải, nhưng cũng có một số tài liệu cho rằng nó được phát hiện đầu tiên ở vùng Viễn Đông. Bông hoa này đã được nhắc đến trong thần thoại La Mã và xuất hiện trong những ghi chép lịch sử thiên nhiên của tác giả người La Mã Pliny vào khoảng năm 50 trước Công nguyên.
Các tu sĩ La Mã thế kỷ 13 được xem như những người đầu tiên đã đem trồng những cây hoa cẩm chướng. Và bông hoa này đã rất quan trọng đối với người Hy Lạp và La Mã lúc đó, nó trở thành biểu tượng của người La Mã vào giai đoạn đỉnh cao của nền văn minh của họ. Nó cũng còn được gọi là "Jove's flower" (bông hoa của thần Jupiter), do Jove (Jupiter) là một trong những vị thần được họ tôn kính.
Thời Hy Lạp cổ đại. cẩm chướng là bông hoa được sủng ái nhất. Theo một truyền thuyết của Cơ đốc giáo, khi nhìn thấy Jesus trên thập tự giá, Mary đã khóc, và những bông hoa cẩm chướng đã mọc lên từ nơi mà những gịot nước mắt của bà đã nhỏ xuống.
Trong cuốn "Ngôn ngữ loài hoa" thời nữ hoàng Victoria (1837-1901), hoa cẩm chướng được xem như một món quà may mắn cho người phụ nữ.
Một số quan điểm hơi "mê tín" còn dùng hoa cẩm chướng để "xem bói". Ở Korea-Triều Tiên, 3 bông hoa cẩm chướng được cài trên tóc một cô gái, và số phận của cô được suy đoán từ thứ tự các bông hoa dần chết đi. Nếu bông hoa ở dưới cùng tàn héo trước, cô ấy bất hạnh suốt cuộc đời. Tuy nhiên, nếu bông hoa trên cùng úa tàn trước, những năm cuối đời của cô sẽ rất khó khăn. Còn nếu bông hoa ở giữa héo trước, những năm đầu đời của cô khá vất vả, nhưng có lẽ hậu vận sẽ tốt hơn.
Hoa cẩm chướng còn là biểu tượng quốc gia của Slovenia (ở Nam Tư). Cẩm chướng được ngợi ca trong những bài hát của người Slovene. Hình ảnh hoa cẩm chướng đỏ xuất hiện nhiều trong những đồ vật trang trí, đồ thủ công, thêu, gối, chiếc nôi em bé...của họ. Đối với họ, hoa cẩm chướng tượng trưng cho "món quà của Thượng Đế" hay "tình yêu đối với một đứa trẻ". Cẩm chướng đỏ còn tượng trưng cho lòng nhân hậu và tình yêu. Hình ảnh hoa cẩm chướng cũng thường thấy trên những hộp vải lanh của cô dâu, trên quần áo, mũ ni, khăn trùm đầu.. của các cô gái. Bó hoa gồm cẩm chướng, hương thảo, phong lữ có như một thông điệp về tình yêu, lòng thủy chung, chờ đợi và niềm hy vọng mà các cô gái cài trên ngực người yêu trước khi chàng trai phải lên đường ra mặt trận.
Ở vùng quê, nhất là ở những miền núi, hoa cẩm chướng được đặt trên ngưỡng cửa sổ hay ngoài bancông. Ngôi nhà của người nông dân với những bông hoa cẩm chướng là một nét đặc trưng của xứ sở Slovene.
Một truyền thuyết Italia kể rằng, Margherita - một thiếu nữ đã tặng cho người yêu của nàng - chàng hiệp sĩ Orlando một bông cẩm chướng màu trắng mà anh đã mang nó theo mình trên suốt đường chinh chiến. Rồi anh bị thương nặng và chết, máu anh nhuộm thẫm nơi chính giữa bông hoa trắng sau đó đã được đem về cho nàng Margherita với trái tim tan vỡ. Từ những hạt giống đó, Margherita trồng nên những bông cẩm chướng xinh đẹp màu trắng và luôn có khoảng màu đỏ nơi chính giữa cánh hoa. Margherita đã chung thuỷ mãi mãi với Orlando và ở vậy đến cuối đời. Sau đó, có tục lệ tặng cho mỗi em bé gái mới sinh ra trong gia đình cô một chậu hoa cẩm chướng đặc biệt ấy.
Trong lịch sử, hoa cẩm chướng cũng đã được nhắc đến vào thế kỷ 13, khi đội quân Thập tự chinh bị tấn công bởi dịch bệnh, gần Tunis. Người ta đã trộn lá cẩm chướng với rượu và uống nó để trị những cơn sốt dữ dội.
Trong cuốn sách nghiên cứu về thảo mộc thế kỷ 16, John Gerard đã viết rằng, hoa cẩm chướng và đường, chế thành mứt được dùng để chữa những cơn sốt và giải độc.
Người ta còn dùng hoa cẩm chướng trong sản xuất hương bia, rượu vang và chế thuốc nhuộm tóc đen (?).
HOA LILY
Và trong ánh bạc sáng lung linh
Những đóa Loa Kèn trang nghiêm đứng đó
Như những nữ tu trinh bạch, ngọc ngà
Trong bài kinh cầu nguyện
Những làn hương thanh khiết
Khiến không trung trở nên thánh thiện
Và tràn ngập màn đêm, thơm ngát.
Julia C.R.Dore
Tên tiếng Việt : Bách Hợp, Loa Kèn, hoa Huệ Tây
Tên tiếng Anh : Lily
Tên tiếng Pháp : Lis, Amaryllis (Red Lily)
Tên Latin : Lilium
Tên khoa học: Lilium Longiflorum
Họ : Liliaceae (Hành tỏi)
Ý nghĩa :
Lily : Sắc đẹp - Đức hạnh - Thanh cao, quý phái - Kiêu hãnh
Lily trắng : Thanh khiết, trinh nguyên, ngọt ngào, chân thành.
Thông điệp : Thật tuyệt vời khi bên em (It''s heavenly to be with you)
Lily vàng : Lòng biết ơn, sự vui vẻ.
Lily cam : Sự căm hờn.
Lily Tiger : Sự giàu có, kiêu hãnh.
Lily có nhiều loài và nhiều biệt danh khác : Asiatic Lily, Oriental Lily, Madonna Lily, Easter Lily, Bermuda Lily, Trumpet Lily, Snow Queen, Mary''s Tear, Tiger Lily (Turks Cap Lily)...
Lily, Bách Hợp, Loa Kèn hay hoa Huệ Tây trắng là bông hoa rất quan trọng và ý nghĩa đối với Cơ Đốc giáo, biểu tượng cho sự trinh trắng và đức hạnh. Trong Kinh Thánh, Lily được nhắc đến bằng cái tên "vị tông đồ khoác áo choàng trắng hy vọng" (the white robed apostles of hope). Lily mọc trong vườn Gethsemane sau khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Easter Lily được cắm trong nhà thờ suốt mùa lễ Phục Sinh để mừng sự hồi sinh của Chúa Jesus. Lily trắng được dâng hiến cho Đức Mẹ Đồng Trinh (Madonna Lily - Hoa tượng Thánh Mẫu), và là biểu tượng của sự thanh khiết, trong trắng. Truyền thuyết kể rằng trước kia Lily màu vàng, sau khi được Mẹ Maria cúi xuống hái nó lên, Lily mới hóa thành màu trắng.Trong những bức họa xưa, người ta thường vẽ thiên thần Gabriel cầm trong tay một cành hoa Lily trắng đến báo tin cho Mary rằng bà sẽ là mẹ của Chúa Hài Đồng.
Những bức họa khác còn vẽ các thánh đem những bông Lily trắng đến cho Mary và Jesus. Chuyện kể rằng, Thomas nghi ngờ, khăng khăng đòi mở huyệt để xem Người có thật sự đã được lên Thiên Đàng. Khi huyệt mở ra, ông thấy trong huyệt đầy ắp hoa Hồng và hoa Huệ Tây trắng xinh đẹp. Cùng với hoa Hồng, Lily trở thành những bông hoa của Mary. Đối với những người Cơ đốc giáo, Lily trắng còn là bông hoa truyền thống cho mùa lễ Phục Sinh, lễ Truyền Tin như là biểu tượng hân hoan vui mừng trước vẻ đẹp, niềm hy vọng và cuộc sống.
Người La Mã và Hy Lạp cổ đại đã từng tôn vinh Lily trắng lên ngôi cao nhất của các loài hoa. Trong các lễ cưới Hy Lạp và La Mã bấy giờ, người ta đội lên đầu cô dâu vòng vương miện hoa Lily trắng trang hoàng với lúa mì như biểu tượng của sự thanh khiết. Vậy mà Lily cũng là biểu tượng của cái Chết và được đặt trên những ngôi mộ. Ngày xưa, người ta còn tin rằng Lily tự mọc trên những ngôi mộ của những người trong sạch, vô tội mà bị xử oan. Truyền thuyết Tây Ban Nha cổ kể rằng ăn cánh hoa Lily sẽ giúp cho người bị biến thành quái vật được trở lại thành người. Lily cũng là một bông hoa phổ biến trong văn minh Do Thái cổ (từ Hebrew - Do Thái cổ của Lily là Shusan) và là bông hoa thiêng của người Assyria cổ. Nó từng được nhắc đến trong kinh Tân Ước. Thời Trung Cổ, theo những quan niệm mê tín, nếu mơ thấy Lily vào mùa xuân báo hiệu một cuộc hôn nhân hạnh phúc và sung túc, ngược lại, nếu mơ thấy Lily vào mùa đông, sẽ là điềm báo sự thất vọng hay sự chết yểu của người yêu. Cũng ở thời kì này, người ta còn dùng Lily trắng (củ của nó), để chữa bệnh. Thế nhưng, khoa học ngày nay đã chứng minh rằng Lily thực ra không có dược tính và những phương thức chữa bệnh từ Lily vì thế chỉ là huyền thoại.
Trong thần thoại Hy Lạp, Lily trắng được sinh ra chính từ những giọt sữa của nữ thần Hera (Queen of Heaven) - vợ thần Zeus. Chuyện kể rằng, Hercules là con trai của Zues với một phụ nữ bình thường Alceme. Vì muốn cho con trai mình có thêm sức mạnh thần thánh, Zeus để Hera ngủ say rồi đặt cậu bé bên cạnh nữ thần cho bú sữa. Khi Hera tỉnh dậy, bất ngờ và tức giận, bà đẩy đứa trẻ khỏi mình. Những giọt sữa thừa lúc ấy phun trào xuyên qua bầu trời tạo nên dải Ngân Hà (the Milky Way), còn vài giọt rơi xuống mặt đất, từ đó mọc lên những bông hoa Lily trắng đầu tiên...
Lily là bông hoa thiêng của văn minh Minoan * , biểu tượng đặc biệt của vị Nữ Thần thống lĩnh thời kỳ Minoan, Britomartis hay Dictynna, khởi nguyên từ thời Đồ Đá. Bà duy trì uy quyền của mình ở Crete cho đến khi trận Đại Hồng Thủy huyền bí xảy đến với nền văn minh Minoan vào giữa thế kỷ 16 trước Công Nguyên. Khi giáo phái của nữ thần dần dần bị đồng hóa vào tôn giáo của người Hy Lạp, bà trở thành tiền thân của nữ thần Mặt Trăng - Muông Thú - Săn Bắn Artemis trong thần thoại Hy Lạp (chị em sinh đôi của thần Mặt Trời Apollo, tương ứng với nữ thần Diana trong thần thoại La Mã).
Ngày nay, người ta tìm được những mảnh gốm cổ mang hình ảnh hoa Lily của nền văn minh Minoan ở đảo Crete. Các nhà khoa học cho rằng những mảnh gốm Minoan chính là di tích của nền văn minh Atlantis huyền thoại. **
Lily cho mùa lễ phục sinh (Easter Lily) xuất xứ từ Nhật Bản và mọc dại tự nhiên ở nhiều nơi khác như Trung Quốc, Formosa, quần đảo Lichu (?)... Lily đã từng được nhắc đến trong một cuốn sách về vườn cảnh Nhật Bản từ năm 1681. Easter Lily đến vương quốc Anh năm 1819 và chẳng bao lâu sau đó, nó đã trở thành một bông hoa quen thuộc được ưa chuộng. Những củ hoa Huệ Tây được xuất khẩu sang Anh, Mĩ từ Bermuda, bấy giờ là trung tâm sản xuất Hoa Huệ Tây thương mại đầu tiên ngoài Nhật Bản. Các củ Huệ Tây lúc đó còn được gọi là "Vàng Trắng" (White Gold).
Ah, Lily cũng được vẽ trong một bức tranh nổi tiếng của cố họa sĩ Tô Ngọc Vân của Việt Nam mình, các bạn nhớ không, tác phẩm "Thiếu nữ bên hoa Huệ". Bức tranh đã bán cho một người sưu tầm đồ cổ với giá 15,000 USD rồi bị tráo ra nước ngoài.
Lily có thể chưng trong bình được khá lâu, từ 14-20 ngày. Muốn hoa tươi bền, ngay khi hoa mở cánh, người ta cắt bỏ bao phấn vàng để hạt phấn không lem vào cánh hoa.
Ý nghĩa hoa Violet
Một số người xem hoa Violet là biểu tượng của "tính khiêm tốn", với nhiều người khác nó lại mang ý nghĩa "Sự chung thủy". Bông hoa bé nhỏ, đầy rụt rè này giữ một vị trí rất cao trong nghệ thuật bày tỏ bằng hoa. Người Hy lạp chọn bông hoa có hương thơm nhẹ nhàng cổ điển này để làm bông hoa của thần Aphrodite, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Dĩ nhiên, Violet được gắn liền với "tính khiêm tốn" vì một cô gắi trẻ đẹp nhưng e lệ thường được gọi là "Shrinking Violet" (Người rụt rè, hay xấu hổ)
Napoléon Bonaparte rất thích Violet. Khi bị đày đến Elba, ngài đã chọn bông hoa bé nhỏ này như là một ám hiệu để liên lạc với thuộc cấp của mình. Nếu một ngôi nhà của người Pháp có treo một bó hoa nhỏ Violet, hay một người Pháp có mang bên mình hoa Violet, thì điều đó có nghĩa họ chứng tỏ cho người khác biết mình là người ủng hộ Napoleon.
Đối với các nhà thơ nổi tiếng, từ Homer đến Tennson, vẻ đẹp và hương thơm của Violet đã là cảm xúc của nhiều tứ thơ hay:
Hoa Violet thủy chung
Là niềm yêu dấu của từng lứa đôi
Trái tim em, cõi tình tôi
Người ơi xin hãy tuyệt vời như hoa
- Khuyết danh -
Violet loài hoa yêu quí
Đẹp dịu dàng như đôi mắt em
Bằng ánh nhình thật thà chung thủy
Xóa tan lòng ngờ vực nhỏ nhen.
- ELIZABETH BARRETT BRIWNING -
Hương của hoa và màu xanh của lá
Đã tràn vào ngự trị lòng tôi
Violet tặng món quà vô giá
Những phút giây của hạnh phúc tuyệt vời!
- AFRED, LORD, TENNYSON -
Chúng ta là Violet xanh tươi
Với sức sống tự ngọt ngào dâng hiến
Dẫu trong bóng râm đầy rêu lười biếng
Chúng ta vẫn hướng về màu đất tươi non
Tình yêu thắm trên mi với một nụ hôn
Là hơi thở, là màu hoa xanh bất diện
- LEIGH HUNT -
Nghĩa Hoa Mẫu Đơn
Hoa Mẫu Đơn
Thịnh vượng - Hạnh phúc
Tên tiếng Việt : Hoa Mẫu Đơn
Tên Trung Quốc : Sho-Yo (hay Shao-Yao)
Tên tiếng Anh : Peony
Tên tiếng Pháp : Pivoine officinale
Tên Latin : Paeonia officinalis
Tên khoa học : Paeonia lactiflora
Họ : Paeoniaceae
Ý nghĩa - Biểu tượng : Mẫu đơn là loài hoa vương giả sang trọng ở Trung Quốc biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng, sắc đẹp. Ở Nhật Bản, Mẫu Đơn tượng trưng cho cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con cháu. Còn trong ngôn ngữ loài hoa phương Tây, nhờ những đặc tính y học tuyệt vời, Mẫu đơn còn được xem như một loại dược thảo chữa bệnh và mang ý nghĩa "sự e lệ".
Mẫu đơn có nguồn gốc từ Trung Quốc và Tây Tạng, là một trong những cây hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm. Khi những nhà truyền giáo đạo Phật đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa Mẫu đơn này. Người Nhật luôn là một dân tộc yêu hoa, nên bông hoa đẹp mới đến nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của Tháng Sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Peony được đặt tên theo Paeon, một thầy thuốc học trò của Thần Y Asclepius trong thần thoại Hy Lạp.Ông được nữ thần Leto (mẹ của thần Mặt Trời Apollo) mách bảo cách lấy được chiếc rễ thần kỳ mọc trên đỉnh Olympus mà nó có thể xoa dịu được cơn đau của người phụ nữ khi sanh nở. Asclepius trở nên ghen tức với Paeon. Để cứu Paeon thoát chết vì sự phẫn nộ của Asclepius, thần Zeus đã biến ông thành một bông hoa Mẫu đơn.
Ngày nay, Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh. Bạn có biết rằng, xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Trung Quốc. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh "Chúa của muôn hoa". Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau Công Nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Thành phố Luoyang (Giang Nam ?) - Trung Quốc, nổi tiếng về nhiều chủng loại Mẫu đơn phong phú, rực rỡ sắc màu nhờ thời tiết ôn hòa và đất đai thích hợp. Ngày 21/9/1982, người dân Luoyang chính thức chọn Mẫu đơn là biểu tượng hoa của thành phố mình. Tháng 4 là tháng của Hoa Mẫu Đơn, thật sự là mùa vui cho những người yêu hoa ở xứ sở này. Hoa Mẫu đơn nở đẹp lộng lẫy, hương thơm, sắc màu hoa hiện diện khắp nơi trong thành phố. Và lễ hội Mẫu đơn Louyang - Luoyang Peony Festival được tổ chức từ 15/4 - 25/4 hằng năm là một lễ hội văn hóa lớn, niềm tự hào của cư dân Luoyang. Suốt mùa lễ hội, tưng bừng những đèn lồng sặc sỡ, các hoạt động kinh tế cũng khá nhộn nhịp, không khí vui tươi và gây một ấn tượng sâu sắc cho tất cả các du khách trên khắp thế giới đến chơi. Ở Luoyang có những loài Mẫu đơn quý hiếm, màu sắc thay đổi lạ, hay cả những bông hoa lớn đến hàng trăm cánh, sống đã hàng trăm tuổi.
Võ Hậu ra lệnh cho muôn hoa trong vườn ngự uyển nở cùng lúc trong đêm bằng một bài thơ tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn. Linh ứng thay, tất cả trăm hoa phụng mệnh ! Chỉ có một cây Mẫu đơn vẫn khẳng khiu trơ lá. Thế là Mẫu đơn bị đày khỏi kinh đô, xuống vùng ngoại ô Giang Nam. Kỳ diệu thay ! Vừa đến đó, bông hoa bừng nở đẹp tuyệt vời ! Võ Hậu rất tức giận, ra lệnh đốt nó đi, nhưng thậm chí sau khi đốt, Mẫu đơn vẫn nở hoa. Từ truyền thuyết này, hoa Mẫu đơn càng được yêu quý hơn trong dân gian.Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh cao.(Bài của chị Rain).
"Peony - the friend of physicians and the praise of cooks."
(Charlemagne - hoàng đế La Mã)
Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến những khả năng kỳ diệu lạ thường của cây hoa mà người ta đã lưu truyền trong dân gian. Dược tính của Mẫu đơn chủ yếu ở rễ và hạt. Rễ cây có tính kháng sinh, giúp giảm đau, trị bỏng, làm giảm huyết áp, giúp trẻ mọc răng, chữa bệnh vàng da, dị ứng, thận...Hạt hoa từng được xem như một loại gia vị thông dụng. Những tập tục mê tín còn tin rằng nếu đeo một vòng cổ kết bằng hạt Mẫu đơn, bạn sẽ tránh được các bệnh như hủi, động kinh, mất trí và nó còn xua tan những cơn ác mộng, như một lá bùa hộ mạng bảo vệ người ta chống lại ma quỷ hay những thế lực của bóng đêm !
Khoảng năm 77 sau Công Nguyên, trong cuốn sách Pliny''s Natural History đã mô tả chi tiết về cây hoa và 20 bệnh chữa bằng những bộ phận của nó. Không lâu sau đó, Dioscoride cũng đã viết một luận án về những cây thảo dược, trong đó có Peony. Vì là một cây thuốc quan trọng, dược liệu Mẫu đơn được sản xuất với lượng lớn hằng năm nhằm đáp ứng nhu cầu ở Trung Quốc và thể giới.
Bạn biết không, hoa Mẫu đơn - Peony là biểu tượng hoa lần thứ tư (!) của tiểu bang Indiana - Hoa Kỳ. Quả thật là lận đận bạn nhỉ ! Hì, mình chưa thấy tiểu bang nào thay đổi biểu tượng hoa của họ nhiều như vậy, đến những 4 lần ! Bông hoa đầu tiên được chọn là Cẩm Chướng (15/3/1913), rồi đến Tulip - Uất kim hương (1/3/1923), Cúc Zinnia (chưa đầy 10 năm sau đó), và sự đổi ngôi cuối cùng mới dành cho Mẫu đơn - Peony vào ngày 13/3/1957.
Pink Peony is so much more than a fragrance, it''''s a lifestyle. The fragrance of the romantic, light-hearted woman who lives every moment with grace and elegance.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)